Nghệ thuật đương đại 2011: giữa quyết liệt và bảo thủ

Mai Chi

Với tất cả những kêu ca và phàn nàn về một môi trường hoạt động nghệ thuật khó khăn, đời sống sinh hoạt nghệ thuật đương đại của năm 2011 vẫn tương đối phong phú. Gần như tuần nào cũng có ít nhất một sự kiện xảy ra, một triển lãm được khai mạc. Các hoạt động không chỉ tập trung tại một khu vực, mà trải đều ở Hà Nội, TP Hồ Chí Minh và cả ở Huế. Điều đáng chú ý nữa là vai trò của các cơ quan văn hóa nước ngoài như Viện Gớt, Hội đồng Anh hay L’Espace của Pháp đã giảm thiểu đi nhiều; ngược lại các phòng tranh và không gian nghệ thuật do cá nhân điều hành hoạt động tương đối đều. Có vẻ như khu vực tư nhân đã trở thành người gánh vác chính trong việc đưa nghệ thuật đương đại đến với công chúng. Nếu như kiếm tiền từ làm nghệ thuật còn khó khăn thì dường như việc kiếm tiền từ chỗ khác để làm nghệ thuật đã dễ dàng hơn nhiều.

Về nội dung, 2011 cũng tương đối đa dạng, với các giọng nói, phong cách và chủ đề khác nhau. Không có tham vọng đề cập tới tất cả những điều đáng lưu ý, trong khuôn khổ bài viết này tôi muốn nhấn mạnh tới ba nét thú vị nổi lên: sự quyết liệt của phụ nữ, những tiếp cận khác và chủ nghĩa bảo thủ mới.

Sự quyết liệt của phụ nữ

Nếu như những nghệ sĩ nam của thế hệ đầu của nghệ thuật đương đại là những người đầu tiên mang thế giới nội tâm mình vào tác phẩm, một hành động mới mẻ trong môi trường nghệ thuật mòn mỏi và sáo rỗng của 15 năm trước, thì dường như các nghệ sĩ nữ là những người bây giờ tiếp tục hành trình mổ xẻ và tự vấn bản thân này. Và họ làm việc đó một cách quyết liệt, tới mức ta có cảm giác nó liên quan tới việc sống còn của họ. Lý Trần Quỳnh Giang và Lại Thị Diệu Hà là những ví dụ điển hình cho xu hướng này.
Trong Ốm à?, triển lãm mang tính tự sự gần đây nhất của Lý Trần Quỳnh Giang tại Vietart Center, sự cô đơn lặng lẽ toát ra từ các chân dung chỉ toàn là mắt và những ngón tay khẳng khiu. Ở một nhóm tranh khác, những hình khỏa thân nữ của chị cũng có những cái nhìn ám ảnh, không buông tha như vậy. Cái đau được thể hiện một cách không cầu kỳ, không phô trương hay nổi loạn. Nó đã được chấp nhận, đã trở thành một phần của thế giới nội tâm của tác giả, và do vậy, nó thậm chí cũng không đi tìm sự an ủi từ người khác.

 Tranh Lý Trần Quỳnh Giang.


Trong khi những chân dung mắt-tay của Giang có phần bị lặp đi lặp lại thì với tôi, những phụ nữ khỏa thân của chị có sức cuốn hút lâu bền hơn. Chúng vừa trực diện vừa thầm kín, mạnh mẽ bởi không che đậy sự tổn thương. Chúng làm tôi nhớ tới loạt tranh tự họa của nữ nghệ sĩ Áo Maria Lassnig lúc đã trên 80 tuổi, khi bà quan sát những cảm xúc thân thể của mình. “Thực tại duy nhất là những cảm giác của tôi, trỗi dậy trong khuôn khổ của cơ thể tôi” bà viết. Câu này dường như cũng được viết cho loạt tranh khỏa thân của Giang.

Hoài nghi, Maria Lassnig, 2004-05. (Nguồn: Internet)

Lại Thị Diệu Hà là một nữ nghệ sĩ khác cũng lấy cơ thể và tiểu sử của của bản thân làm trung tâm cho các sáng tác của mình. Chị dùng những trình diễn để chú giải và ghi lại quá trình phát triển bản sắc của mình, trong đó quan niệm về cái đẹp của phụ nữ, tự nhận thức về hình ảnh cơ thể, về những xiềng xích mà nó đem lại và quá trình giải phóng bản thân là những chủ đề chính. Trong một trình diễn, chị mời khán giả hôn mình. Trong một trình diễn khác, chị giải phóng mình khỏi những miếng độn mông mà chị đã sử dụng trong nhiều năm nhằm tạo hình ảnh tròn trịa hơn cho cơ thể, và biến mình thành một con chim lông vũ xanh biếc. Đây là những vật lộn của một người phụ nữ để được sống với nhu cầu tình cảm của mình, được thống nhất với cơ thể mình. Các hành động của chị mang tính nữ quyền: người phụ nữ trở nên tự tin, dũng cảm và tìm cách thoát khỏi vai trò nô lệ mà họ đã tự đặt mình vào.

 Con chim xanh, trình diễn của Lại Thị Diệu Hà, 2010.

Diệu Hà có những tương đồng thú vị với Patty Chang, một nghệ sĩ video và trình diễn người Mỹ gốc châu Á. Trong một video, Chang hôn hình của mình trên mặt nước, hình ảnh video được dựng ngược 90 độ, tạo cảm giác chị đang hôn và uống hình của mình trong gương. Ở video Lươn, chị mang váy đen ngắn và áo sơ mi chật, cài kín cổ. Bên trong áo chị là những con lươn sống (mà chỉ tới cuối video người xem mới nhận biết được). Khi chúng bắt đầu trườn, áo chị ướt dần, chị thở mạnh, giật mình, oằn người, rên khẽ, và khuôn mặt chị thay đổi giữa các trạng thái bị nhột, sợ hãi, bị kích thích, ghê tởm, chống cự – dường như chị vừa bị tra tấn vừa có khoái cảm. Chang dùng cơ thể mình để kết nối với những trạng thái tâm lý, và giống như ở Diệu Hà, đem lại những tình huống gây khó xử cho người xem và bắt họ phải suy nghĩ. Tuy nhiên, Diệu Hà có tính kể chuyện cao hơn, do đó đơn giản hơn và không được độ mâu thuẫn và phức tạp như Chang.

Những tiếp cận khác

Để đại diện cho khía cạnh này, tôi muốn nhắc tới ba nghệ sĩ và dự án. Họ có cùng chung một điểm: đưa ra một điều bất ngờ, một điểm mới, có thể thông qua chất liệu làm việc, như trong trường hợp Lionel Déscostes và Mamoru Okuno, hay thông qua việc định nghĩa vai trò của bản thân trong cộng đồng, như qua dự án của Ga 0 và Click 9.
Đã có nhiều nghệ sĩ đương đại trong và ngoài nước dùng chất liệu sơn mài cho công việc của mình, nhưng Lionel Descostes, nghệ sĩ người Pháp sống lâu năm tại Việt Nam, là người đầu tiên đưa kỹ thuật thêu Việt Nam vào nghệ thuật đương đại. Anh đã có một quá trình làm việc tám năm vất vả và đơn độc trong studio, với các trợ lý câm và khiếm thính, trước khi giới thiệu thành quả với công chúng (lần gần đây tại E’space vào đầu năm 2011). Những tác phẩm thêu có phong cách khác nhau, nhưng đều làm ta bất ngờ vì chúng đi ngược lại với những hình dung về thêu truyền thống. Sự phối mầu hài hòa và những đường nét uyển chuyển dễ làm cho ta quên đi khối lượng công việc đồ sộ và buồn chán ẩn đằng sau. Descostes đã chứng tỏ rằng để đương đại ta không nhất thiết phải làm sắp đặt hay trình diễn – ta có thể cách tân bằng những vật liệu và kỹ thuật cổ xưa nhất.

 Television (detail), Lionel Descostes, 2008. (Nguồn: www.hanoigrapevine.com)

Dự án “Vẽ graffiti trên tường hẻm” do không gian nghệ thuật Ga O và nhóm Click 9 tiến hành trong ba tuần, làm đúng việc mà tên dự án nêu lên. Nhưng khác với các động tác đem nghệ thuật tới cộng đồng khác, nó không chỉ đặt một cái tượng, hay vẽ một bức tranh ở chỗ công cộng rồi rút lui. Điều quan trọng hơn là trong quá trình làm việc dự án đã thu hút được sự quan tâm của người dân xung quanh, đưa họ vào trong quá trình hình thành kết quả. Không được lập kế hoạch trước, nhưng nội dung của bức graffiti cuối cùng đã gắn kết chặt chẽ với người dân trong hẻm bằng những chân dung của họ. Qua cọ sát, đối thoại với dự án, quá trình thay đổi nhận thức về nghệ thuật của người dân được khởi động. Với nghệ sĩ, đây là một cơ hội để tư duy về không gian dân chủ của nghệ thuật, về vai trò liên kết và chỗ đứng của bản thân trong cộng đồng. Đây là một ví dụ tốt minh chứng rằng chỉ với một ngân sách không lớn ta có thể đạt được kết quả hữu ích hơn rất nhiều các dự án nghệ thuật cộng đồng mang tính áp đặt khác.

 Vẽ graffiti lên tường hẻm, Ga O và Click 9, 2011.

Một trong những tác phẩm thú vị nhất của 2011 với tôi là Etudes cho cuộc sống thường ngày – Số 11 của nghệ sĩ âm thanh Nhật Mamoru Okuno trong triển lãm NOWHERE. Khi học một nhạc cụ, các etude là các bài tập nhỏ giúp ta tập luyện để nắm vững một kỹ thuật nhất định. Hướng sự chú ý của chúng ta tới những âm thanh thường ngày, các etude của Mamoru giúp ta tập luyện cái nhìn trong cuộc sống, một thái độ sống. Bài tập số 11 là những mắc áo thép treo trên dây, chúng phát ra những tiếng kêu leng keng khi có gió, kéo ta quay lại với giây phút hiện tại, và ta cảm thấy sự dễ chịu của những lúc tâm trí ngừng không nhảy nhót như một con khỉ nữa.

Bài tập cho cuộc sống thường ngày – Số 11 (Mắc áo và quạt), Mamoru Okuno, 2011.

Các bài tập khác của anh cũng rất thú vị. Số 36 ghi lại âm thanh của nước được tưới lên trên đất khô của những chậu rau anh trồng (và kết quả không chỉ là một tác phẩm âm thanh, mà còn là số rau anh thu hoạch được). Số 12 cho người xem nghe tiếng giấy bóng nhôm gói thức ăn cựa mình sau khi chúng bị nén lại. Mamoru đã thành công trong việc nạp những giá trị thẩm mỹ vào những đồ vật rẻ tiền hàng ngày.

Chủ nghĩa bảo thủ mới

Gây chú ý nhất trong năm 2011 chắc chắn là hai nghệ sĩ Hải Phòng Vũ Ngọc Vĩnh và Mai Duy Minh. Triển lãm Không thời gian của hai nghệ sĩ (cùng Bùi Duy Khánh) được coi là quan trọng, thậm chí là cột mốc của mỹ thuật Việt Nam. Một trong hai tác phẩm chủ đạo của Vũ Ngọc Vĩnh trong triển lãm này là Trở về từ đám tang. Như nhiều người đã nhận xét, nó gần với chủ nghĩa hiện thực của châu Âu, đặc biệt là Coubert trong Đám tang (1850) và Những người kéo thuyền trên sông Volga của Ilya Repin (1870). Hai tác phẩm lịch sử kia mang tính cách mạng bởi chúng lần đầu tiên lấy tầng lớp bình dân làm chủ thể cho hội họa – một cú sốc với giới thượng lưu đô thị và nghệ sĩ lúc bấy giờ. Tuy nhiên, ở Việt Nam, vào thời điểm này, Trở về từ đám tang mang sự quen mắt của một ngôn ngữ thị giác đã mòn. Thay những cờ phướn kia bởi những lá cờ đỏ, thay những nhạc cụ bởi cuốc xẻng, xe đòn đám ma bởi một chiếc xe công nông, và ta sẽ có Đào kênh thủy lợi phục vụ sản xuất nông nghiệp. Nếu ta mặc đồ lính cho những nhân vật trong bức Hy vọng, ta sẽ có Bộ đội lau súng trong giờ nghỉ giải lao. Nếu ngoài ra họ còn cầm thêm mấy tờ giấy trắng, ta sẽ có Đọc thư hậu phương trước giờ nổ súng. Vân vân.

 Hy vọng, Vũ Ngọc Vĩnh, 2011.

Tác phẩm siêu thực chính của Mai Duy Minh, Miền đất hứa, được vẽ trong gần ba năm, với kỹ thuật sơn dầu của các bậc thầy cổ điển, đề cập tới nỗi ám ảnh cơm áo gạo tiền, dưới góc độ tâm lý nam giới: một con người gục ngã trong một thế giới hoang tàn, trước hai bàn tay gân guốc, cầm bát và đũa. Chúng ta lưu ý sự thể hiện khác nhau của những vật lộn nội tâm trong trường hợp này và trường hợp của hai nghệ sĩ nữ bên trên. Tuy nhiên, to lớn hơn (bức tranh có kích thước 540 x 200 cm) không có nghĩa là mãnh liệt hơn. “Miền đất hứa” có thể làm ta thán phục nhưng không xúc động, không làm ta phải suy nghĩ tiếp. Tất cả đã được bày ra, không có câu hỏi, chỉ có những câu trả lời.

 Miền đất hứa, Mai Duy Minh, 2011.

Rõ ràng là Mai Duy Minh và Vũ Ngọc Vĩnh đã chọn một vị trí bảo thủ, và sự lựa chọn này hoàn toàn có ý thức. Vậy vì sao công chúng lại hưởng ứng một cách nồng nhiệt như vậy? Lý do có thể là, tại thời điểm 2011, những hình thức “mới” – sắp đặt và trình diễn – không còn “nóng” nữa. Người xem bắt đầu dãn ra, và mạnh dạn thể hiện sự ưa thích những thể loại tranh này mà không sợ bị coi là không cấp tiến. Trong khung cảnh rất nhiều sắp đặt và trình diễn được làm cẩu thả, dễ dãi và hình thức, đi kèm với các tuyên ngôn của nghệ sĩ (artist statement) không ăn nhập, rối ren, đau đầu và sai chính tả thì dường như công chúng mong muốn nhìn thấy sự thể hiện của kỹ thuật, tay nghề, và công sức. Nếu điều này đúng thì trong mấy năm tới chúng ta sẽ tiếp tục thấy mối quan tâm tới sắp đặt và trình diễn giảm sút, và chứng kiến sự lớn mạnh của chủ nghĩa bảo thủ mới này.
-------------
Nguồn TT&VH