Những tác phẩm vô giá của mỹ thuật Việt Nam hiện đại

Bộ sưu tập của họa sỹ Thái Lan Tira Vanictheeranont được trưng bày tại Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam từ ngày 20 - 26/12/2012.
Các tác phẩm trong cuộc triển lãm là những bức tranh sơn dầu, màu nước… của các họa sĩ nổi tiếng đặt nền móng cho hội họa của nước ta như: Tô Ngọc Vân, Trần Văn Cẩn, Nguyễn Sáng, Bùi Xuân Phái… triển lãm mang đến cho người xem cảm nhận về cuộc sống qua những nét vẽ của các họa sĩ tài ba, hơn nữa các bức tranh còn thể hiện các vấn đề xã hội trong từng phong cách thể hiện.

Bức "Thiếu nữ" của họa sĩ Tô Ngọc Vân

Một bức phác thảo của họa sĩ Nguyễn Gia Trí

"Bác Hồ" của họa sĩ Phạm Văn Đôn

Tranh của họa sĩ Nguyễn Kao Thương

Phác thảo của họa sĩ Mai Văn Hiến

Tranh sơn mài của họa sĩ Nguyễn Văn Bình

Khung cảnh chùa Thầy được thể hiện bằng chất liệu sơn mài của họa sĩ Hoàng Tích Chù

Bức "Phố" của họa sĩ Bùi Xuân Phái

Khung cảnh biển Mỹ Khê qua chất liệu sơn dầu của họa sĩ Bùi Xuân Phái

“Giải phóng Thăng Long”  - đồng và sơn mài của họa sĩ Ngô Chính
-------------
MTHP sưu tầm trên Internet

Phố - Triển lãm tranh & sắp đặt của Nguyễn Ngọc Dân

Phố Dân – Dân Phố
Nguyễn Quân


Tranh phố cổ hoài cổ thẩm mỹ cao của Bùi Xuân Phái đã trở thành di sản. Tranh phố hoa thị hiếu tầm thường tràn ngập các khách sạn, nhà hàng, nhà sang… như giễu nhại xúc phạm hiện thực. Đô thị hóa trong Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa đảo lộn đổi thay từng ngày cuộc sống và môi trường sống của triệu triệu người dân phố. Các nghệ sĩ thực sự luôn vật lộn trong cuộc truy tìm hiện thực phức tạp, bừa bộn, nhiều mâu thuẫn, đụng độ gay gắt tích tụ và bùng nổ nơi phố thị.


Nguyễn Ngọc Dân đã đeo đuổi chủ đề này quyết liệt nhiều năm. Đi và vẽ, sưu tầm và chọn lựa các vật có sẵn, đắn đo cân nhắc các phương tiện tạo hình/thị giác, họa sĩ phát hiện cho mình và cho đô thị những icon mới: Những cột điện, đường dây, biển báo và loa phóng thanh. Chúng đẹp hay xấu, trật tự hay hỗn độn, là đang xây dựng phát triển hay đã là rác thải? Chúng là những thứ ta mong muốn và căm ghét. Chúng mang lại tiện ích và bất hạnh. Chúng giải phóng hay nô dịch dân phố? Môi trường sống đầy trói buộc, cuộc mưu sinh như một mớ bòng bong khổng lồ không hòng tháo gỡ. Liệu ta có đủ sức điều khiển những khối vật chất vô cảm, vô tri giác mà ta làm ra hay ta sẽ bị những “âm binh” này sai khiến?


Vấn đề năng lượng, thông tin và tổ chức, chất lượng môi trường phố thị không còn trừu tượng như trong các thống kê và quy hoạch mà ta trực cảm được chúng qua, quanh và trên các tác phẩm. Tác giả dùng tổng hợp các phương tiện và thủ thuật của nghệ thuật đương đại. Quá trình dàn dựng không gian trưng bày- được ghi hình – đã là một performance. Những sắp đặt phì đại, ngoại cỡ cùng các phương tiện di chuyển tạo ra một không gian tương tác tích cực giữa nghệ thuật và công chúng. Những tranh sơn dầu phong cảnh vớt vát một vẻ trữ tình còn rơi rớt lại nơi Phố – Dân và những tranh dùng vật thể có sẵn – như các tĩnh vật châm biếm trần trụi… khiến ta dừng lại mà hỏi cái gì đây?



Dù tác giả nói to và rõ các chủ đề của mình nhưng lời giải/đáp lại được trao cho người xem – người tham gia vào triển lãm. Đó là một lực hấp dẫn của tính đương đại – contemporaneity. Thời gian thực diễn ra khi ta có mặt tại không gian cụ thể này và thời gian ước lệ, hồi tưởng được ghi lại trên tác phẩm không chồng khít lên nhau mà đan, trượt và giao thoa với nhau.
Phố (của) Dân chắc chắn mang lại nhiều cảm nhận, phát hiện và nghĩ ngợi cho mỗi người dân phố đương đại.
-------------


Họa sĩ Nguyễn Ngọc Dân
Sinh ngày 24/7/1972 tại Hải Phòng
Tốt nghiệp Trường Đại học Mỹ thuật Hà Nội năm 1996
Website: artngocdan.com
Email: artngocdan@yahoo.com.vn
Điện thoại: 0983838620
Hội viên Hội Mỹ thuật Việt Nam
Giải khuyến khích Triển lãm Mỹ thuật toàn quốc 2005-2010
Hội Mỹ thuật Việt Nam sưu tập bức “Loa trên Phố” năm 2011
Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam sưu tập bức “Đèn đỏ” năm 2011

Triển lãm cá nhân:
CHÂN DUNG – BIỂN
Tại 29 Hàng Bài, Hà Nội, Việt Nam. Năm 2003
Triển lãm – Sắp đặt cá nhân

VẮT QUA PHỐ
Tại L’espace 42 Tràng Tiền, Hà Nội, Việt Nam. Tháng 11 năm 2007
Triển lãm – Sắp đặt cá nhân

CẢM XÚC
Tại Leiden, Hà Lan. Tháng 7 năm 2008
Trình diễn cá nhân

PHÍA TRÊN THÀNH PHỐ
Tại de Burcht van Leiden, Hà Lan. Tháng 5 năm 2009

HƯƠNG SẮC
Tại Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam, 66 Nguyễn Thái Học, Hà Nội, Việt Nam. Tháng 12 năm 2011

Triển lãm nhóm
5 HỌA SĨ
Tại Viet Art Center, 42 Yết Kiêu, Hà Nội, Việt Nam. Tháng 9 năm 2011

HÔM NAY VÀ MÃI MÃI
Tại Trung tâm triển lãm và Mỹ thuật Hải Phòng. Tháng 11 năm 2012
-------------
Xem thêm:
Họa sĩ Nguyễn Ngọc Dân
Nguyễn Ngọc Dân

Triển lãm Mỹ thuật Hải Phòng 2012

Tin, ảnh: thangmdk
Triển lãm Mỹ thuật Hải Phòng 2012, từ ngày 6 đến ngày 12/12/2012 tại Trung tâm Triển lãm và Mỹ thuật Hải Phòng. Đây là triển lãm Mỹ thuật do hội Liên hiệp Văn học-Nghệ thuật Hải Phòng tổ chức thường niên vào tháng 12 hàng năm và là triển lãm Mỹ thuật lớn, lần thứ ba được tổ chức trong năm 2012 tại Trung tâm Triển lãm và Mỹ thuật Hải Phòng.
Dưới đây là một vài hình ảnh trong ngày khai mạc:

Lãnh đạo Trung tâm triển lãm và lãnh đạo Hội LH VHNT Hải Phòng cắt băng khai mạc

Phòng Triển lãm rộng rãi mới được nâng cấp rất hiện đại và chyên nghiệp

Ánh sáng đẹp làm tôn lên vẻ đẹp của các tác phẩm mỹ thuật

Các em học sinh xem tranh và chụp ảnh lưu niệm

Một số khán giả yêu thích Mỹ thuật đã ghé thăm

Tác phẩm của Nhà điêu khắc Nguyễn Khắc Nghi

Nghệ sĩ Minh Thu xem tranh của họa sĩ Nguyễn Viết Thắng

Tranh của họa sĩ Cao Nam Tiến

Tranh của họa sĩ Đặng Tiến

Tranh của họa sĩ Mai Duy Minh

Tranh của họa sĩ Hữu Nghi

Tranh của họa sĩ Phạm Minh Đức

Cùng chủ đề:

Những con sóng Hải Phòng

Đặng Trường Lưu

Không phải là một triển lãm mà những tác phẩm mỹ thuật được bày đều vẽ về biển, thậm chí, rất ít tác phẩm  về đề tài này. Trong 31 tác giả của cuộc hội ngộ “Hôm nay và mãi mãi” khai mạc ngày 17/11/2012 tại Hải Phòng, có đến một nửa hiện sống và làm việc ở những vùng đất khác, vậy mà người xem vẫn có thể nhận ra ít nhiều chút đặc trưng vùng biển, nhận ra đâu đây chút nắng gió mặn mòi…

Tranh sơn mài của họa sĩ Sơn Trúc

Đất Cảng, con người, tâm tư và ý chí Hải Phòng hằn vào tác phẩm qua những hòa sắc, khối hình rạch ròi và quyết liệt. Tố chất văn hóa thành phố Cảng không chỉ hiển hiện trong sáng tác của những họa sĩ có tuổi đời, tuổi nghề già dặn; dường như còn đậm đà hơn thế, ám ảnh hơn thế từ đóng góp của các họa sĩ trẻ, trên con đường vật vã tìm một lối vẽ của riêng mình.

Tranh sơn dầu của họa sĩ Vũ Nghị

Tôi từng được xem tranh của các họa sĩ Hải Phòng từ nhiều năm của thế kỷ trước, khi bày ở Hải Phòng, khi đem lên triển lãm ở Hà Nội. Những phòng tranh ngày ấy đã cho tôi cảm nhận về một Hải Phòng riêng biệt, không dễ lẫn vào mỹ thuật của những vùng đất khác. Ngày ấy, cho dù có le lói một vài họa sĩ nổi trội, vẫn không đủ xoá đi ý nghĩ về một mỹ thuật Hải Phòng quá ư bình lặng, buồn tẻ và luôn tự bằng lòng. Nhưng những triển lãm sang đầu thế kỷ XXI đã cho người xem thật sự hào hứng và tin cậy về sự khởisắc lạ thường. Trong “Hôm nay và mãi mãi”, ta nhận ra điều đó ở ngay những tác phẩm cuối cùng của các họa sĩ quá cố, Thọ Vân với “Mùa xuân”, Mạnh Cường với “Chân dung Minh Thu”, Nguyễn Mạnh với “ Chân dung nhà văn Kim Lân”, hay Nguyễn Quang Ngọc với “Bến cá”. Giá Nguyễn Quang Ngọc đừng vội vã ra đi, tôi tin anh có thể còn nhiều đóng bởi một lối vẽ đã định hình.

Tranh sơn mài của họa sĩ Đinh Quân

Họa sĩ Nguyễn Hà, người cao niên nhất tại triển lãm, vẫn còn nguyên cái nhìn tươi rói và đầy thức cảm trong cách thể hiện sơn mài truyền thống. Với “Mùa hè”, hay “Chén rượu xuân”, các nhân vật của ông thật lộng lẫy, vừa gợi chất kinh điển, vừa đưa ta nghĩ về hiện đại. Nhà điêu khắc Phạm Ngọc Lâm hướng tư duy của mình vào những vật dụng thường ngày, sắp xếp lại, sáng tạo thành tác phẩm vừa hóm hỉnh lại vừa biểu cảm. Họa sĩ Nguyễn Trịnh Thái bỏ qua những lề thói ngặt nghèo của bố cục khi đề cao những không gian náo nhiệt. Quốc Thái bập bùng màu sắc. Lê Đại Chúc gửi lòng vào những khuôn hình giản lược cùng bảng màu gần với nguyên sơ. Sơn mài của Sơn Trúc có hệ thống hình hồn nhiên và gam màu bồi hồi, dịu nhẹ. Phạm Đức Quang, Nguyễn Thế Cường, Bùi Duy Khánh, Nguyễn Đình Hợp, Bùi Trọng Dư, Nguyễn Quốc Thắng, Phạm Minh Đức, Nguyễn Ngọc Dân, Nguyễn Việt Anh, Vũ Nghị… mỗi người theo cách riêng của mình, phổ vào hiện thực những nghĩ suy sâu sắc. 

Tượng gốm của nhà điêu khắc Bùi Viết Đoàn

Dường như hiện thực chỉ là cái cớ bâng quơ, ngẫu nhiên, cực kỳ mỏng mảnh đưa ta vào những nỗi niềm thế sự. Trong khi Đào Song Thắng vắt hình đến cùng kiệt ở những phù điêu gò đồng thì Bùi Viết Đoàn lại quy vật thể vào những ý niệm riêng. Trong khi Phạm Hồng Hà cho nhân vật cuộn lẫn vào hoà sắc thì Nguyễn Trung Dũng tìm ý tưởng qua ngẫu hứng của hình. Khi Vũ Thăng dát vào sơn mài những hình hài đầy tính ấn tượng thì Đinh Quân, Trần Quang Huân, Trần Tuấn, Trần Vinh và Đặng Tiến làm loé lên giá trị nhân văn từ những nguồn cơn đời thực.

Tranh sơn mài của họa sĩ Nguyễn Hà

Không thể nói nhiều hơn, cho dù còn quá nhiều điều để nói về tác phẩm và tác giả hội tụ ở triển lãm “Hôm nay và mãi mãi”. Chỉ biết rằng, các hoạ sĩ Hải Phòng đã thành công khi dội vào lòng người xem nhiều cảm xúc. Họ đã thành công khi những tác phẩm đang làm nên bao đợt sóng biển, lúc hiền hoà, khi dữ dội, bền bỉ và tự tin, đánh thức gợi lên hy vọng về một vùng mỹ thuật Hải Phòng.
-------------
Theo "Lao động cuối tuần" 16/11/2012
Ảnh và chú thích của MTHP

Xem Triển lãm mỹ thuật “ Hôm nay và mãi mãi”

Không hổ danh họa sĩ Hải Phòng
Anh Thơ

Họa sĩ Hải Phòng có tranh trưng bày ở nhiều nơi. Nhưng họa sĩ Hải Phòng đang sống ở nhiều nơi (như Hà Nội, TP Hồ Chí Minh) lần đầu có tranh ra mắt công chúng đất Cảng tại quê hương thì mới thấy ở Triển lãm mỹ thuật “ Hôm nay và mãi mãi” (mở cửa từ 17-11 đến 27-11-2012 tại Trung tâm Triển lãm và mỹ thuật Hải Phòng). Xem 80 tác phẩm của 30 tác giả, quả thật, họ đã không hổ danh họa sĩ Hải Phòng!
Sự kết hợp cùng bày chung tác phẩm của Nguyễn Hà- họa sĩ sinh năm 1933 cao niên nhất ở Hải Phòng hiện nay với các họa sĩ sau ông (trong đó, người trẻ nhất sinh năm 1982) như là một cách nâng đỡ, bổ sung cho nhau về chủ thể sáng tạo.. Đa số họ đều có biên độ phổ biến tác phẩm rộng lớn và thành danh. Họa sĩ có danh hiệu có NSUT Trịnh Thái, Giải thưởng Nhà nước về VHNT có Hoàng Đình Tài. Họa sĩ tuổi ngoài 40 được đào tạo bài bản “nổi đình đám” như Đinh Quân với 24 cuộc triển lãm chung và 8 triển lãm cá nhân. Song, ngay cả những người tự học như Nguyễn Mạnh, Lê Đại Chúc, Trần Quang Huân, Đặng Tiến... cũng không kém sự vượt trội trong tác phẩm. Tất cả làm nên sự kế tiếp rất đáng nể của các thế hệ họa sĩ vùng cửa biển. Trong khuôn khổ triển lãm, 30 tác giả là những đại diện tiêu biểu của mỹ thuật Hải Phòng.
Đó còn là “những cá tính Hải Phòng” đặc biệt in dấu trong mỗi tác phẩm chọn treo trong triển lãm. Cùng chung mục đich phản ánh cuộc sống đương đại, “ vẽ những gì mà tôi cảm thấy”, nhưng các thế hệ họa sĩ Hải Phòng đều thừa hưởng giá trị truyền thống văn hóa vùng cửa biển. Cốt cách tinh thần con người vùng biển Hải Phòng phóng khoáng, chân thành, nồng nhiệt và cảm xúc từ biển đã chi phối cái nhìn của họ về cuộc sống.. Song, ấn tượng nhất chính là khả năng và phong cách thể hiện làm nổi bật tính ưu việt của từng chất liệu làm nên những tác phẩm chuyển tải trọn vẹn ý tưởng của tác giả. Ví dụ: Về chất liệu sơn mài, nếu Nguyễn Hà rất chủ động trong những khám phá về màu sắc của chất liệu truyền thống vốn được coi là “khó tính” và tràn đầy cảm xúc tự nhiên trong “Chén rượu xuân”, thì Sơn Trúc tạo vẻ đẹp nghệ thuật vừa sang trọng vừa gần gũi qua các bức “Trung thu”, “Thăm chùa Thầy”, “Vũ trụ”. Đinh Quân táo bạo, dữ dội khi khám phá nét bí ẩn người phụ nữ trong tác phẩm “Đàn bà, “Phía sau”, “Chân dung”. Chất liệu sơn dầu qua tranh của Thọ Vân, Mạnh Cường, Nguyễn Mạnh... đến “Tháng Giêng”, “Tháng Hai, “Tháng Ba” của Đặng Tiến, “Chợ”, của Quang Huân cho thấy chất liệu này vẫn luôn là thành công của các họa sĩ . Với Nguyễn Ngọc Dân, sơn dầu tỏ ra rất đắc dụng khi thể hiện những bức xúc về giao thông đô thị với biển cấm chồng chéo, dây điện nhằng nhịt chen với loa phóng thanh ở ngã tư đèn đỏ. Còn ở Vũ Thanh Nghị, sơn dầu qua nét vẽ bay ở “Say 2, Say 3” được nhấn mạnh ở những gam màu trầm ghi, đen, xanh... đường nét gồ ghề khi thể hiện tình yêu cuộc sống say sưa đến cuồng nhiệt của con người. Chất liệu đồng chỉ có 2 tác giả khai thác là Phạm Ngọc Lâm và Đào Song Thắng, trong đó tác phẩm sắp đặt “Con thuyền công lý” của Phạm Ngọc Lâm có giá trị biểu cảm lớn về vấn đề nạn nhân đi-ô-xin. Nguyễn Thế Cường với loạt tranh bột màu cho thấy cái nhìn tinh tế của tác giả: Nghệ thuật có thể bắt nguồn từ những điều đơn giả, nhỏ bé trong đời sống. Nguyễn Trung Dũng với mực trên giấy từ các bức “Ngẫu hứng” gợi sự thoải mái trong tưởng tượng có khi là cành cây, có khi như gương mặt người, có khi như cơn lốc. Màu nước cũng mang lại hiệu quả tác phẩm về đời sống dân chài “Biển mùa đông”, “Sóng và đá” của Bùi Duy Khánh. Bùi Viết Đoàn cho thấy sự tìm tòi ngôn ngữ của gốm trong điêu khắc qua sê-ri “Sự cạnh tranh” và “Độc tôn”. Cũng kể tới sắc thái Hải Phòng đậm đà qua phong cách của Quang Ngọc với “Bến cá” (Acrylic). Lê Đại Chúc dứt khoát, mạnh mẽ với gam màu đỏ xanh, vàng tím rất quả quyết về nét riêng của “Mây và nước Hải Phòng”, “Đồ Sơn” (Acrylic trên vải)...
Với sự đa dạng trong cấp độ, trình độ xử lý chất liệu cũng như hướng ý tưởng người nghệ sĩ vào các đề tài cuộc sống, các họa sĩ Hải Phòng cho thấy sự tìm tòi sáng tạo không ngừng của họ làm nên một triển lãm chất lượng cao về nghệ thuật. Sẽ có nhiều gợi mở về phong cách, tính khuynh hướng... từ sự kiện này. Nhưng thành công ngoài sự mong muốn của triển lãm không chỉ ở chỗ thỏa nguyện giấc mơ trong trẻo “trở về quê mẹ” của các họa sĩ Hải Phòng, mà nó còn như một dư âm ngân vang khích lệ tình yêu Hải Phòng trong công chúng cũng như niềm tự hào về các họa sĩ đất Cảng..
Cuộc tiếp xúc, gặp gỡ lần đầu tiên của giám đốc Sở VHTT và DL Hải Phòng Đoàn Duy Linh với các họa sĩ được anh chị em đánh giá như một “ động thái” để họ nguyện không hổ danh họa sĩ Hải Phòng, tiếp tục tạo sự khởi sắc, mới mẻ trong lĩnh vực mỹ thuật làm đầy đặn hơn “địa chỉ văn hóa Hải Phòng” thời kỳ hội nhập./.

Triển lãm Mỹ thuật "Hôm nay & Mãi mãi 2012" - Ngày trở về của những người con Hải Phòng

Tin, ảnh: thangmdk

Lần đầu tiên tại Hải Phòng
Triển lãm Mỹ thuật: HÔM NAY VÀ MÃI MÃI lần thứ nhất
Sự trở về của các họa sĩ người Hải Phòng sống xa quê cùng sự góp sức hỗ trợ của các họa sĩ bản xứ
Khai mạc triển lãm vào 16h ngày 17/11/2012 tại nhà triển lãm số 1 Nguyễn Đức Cảnh, Q. Lê Chân














Cùng chủ đề:

Vẽ bằng sự hiểu biết, bằng trải nghiệm sống

Ngọc Bi

Dẫu đã kết thúc vai trò ông chủ gallery phi lợi nhuận gần tròn một năm qua, họa sĩ Lê Thiết Cương vẫn chưa thể kìm nén “nhu cầu” được nói, được chia sẻ về những giá trị văn hóa và nghệ thuật cốt lõi mà anh luôn đau đáu.
Dưới đây là bài phỏng vấn họa sĩ Lê Thiết Cương của Ngọc Bi:

Lê Thiết Cương 
Họa sĩ Lê Thiết Cương



Làm thế nào để công chúng hướng tới nhu cầu thưởng thức nghệ thuật, hội họa nhiều hơn nữa? Cần những điều kiện gì để tranh Việt mới có khách hàng Việt?

Muốn thưởng thức bất kể điều gì thì phải hiểu biết về điều đó, mà muốn hiểu biết thì phải học. Kiến thức không phải là tờ vé số, ai đó có thể bỗng dưng trúng số nhưng tri thức thì không thể có chuyện hôm trước còn rỗng tuếch, hôm sau đã tràn trề được.
Ngay cả ăn còn phải học, gói mở còn phải học huống hồ thưởng thức nghệ thuật, thưởng thức hội họa. Cái sự giáo dục ở nhà trường chỉ là một phần, người ta phải tự giáo dục mình, tự học về nghệ thuật để hiểu về nghệ thuật. Điều kiện bây giờ đã quá dễ dàng so với thời trước, từ sách vở, thư viện, interrnet, bảo tàng. Cái chính là người ta có muốn hay không thôi.
Tự học hỏi nghệ thuật để hiểu biết và thưởng thức được nghệ thuật, trước tiên là để làm giàu cho đời sống tinh thần của chính mình, làm đẹp cho tâm hồn mình (chứ có làm đẹp hộ cho ai đâu). Cứ tưởng đó là một nhu cầu tự thân, một lẽ đương nhiên nhưng những gì diễn ra hiện nay thì không phải như vậy. Cả một xã hội chen lấn xô đẩy, chạy theo vật chất, tôn sùng vật chất, lấy vật chất làm thước đo cho mọi giá trị. Sự nguy hiểm của tình trạng chênh lệch giàu nghèo thì ai cũng nhìn thấy nhưng ít ai thấy sự nguy hiểm của tình trạng chênh lệch giữa phát triển kinh tế và văn hóa.
Để trả lời làm sao cho người tiêu dùng Việt có nhu cầu thưởng thức nghệ thuật, để có thể nghe được ca trù, xem được chèo, nghe được âm nhạc cổ điển châu Âu, biết thưởng thức hội họa thì rất dễ nhưng làm mới khó. Nói ngắn gọn là khi xã hội biết đề cao những giá trị văn hóa, khi mọi người đều có nhu cầu tự học hỏi, tìm hiểu nghệ thuật, biết tôn vinh những giá trị nghệ thuật... dễ nói nhưng khó làm. Kiếm tiền đã khó nhưng dứt khoát kiếm văn hóa còn khó hơn nhiều. Để có văn hóa thì đòi hỏi phải có một quá trình. Ít nhất năm mươi năm nữa mới hy vọng về một thị trường nghệ thuật Việt của người Việt.

Phần lớn các họa sĩ VN hiện nay đều sống nhờ những nguồn thu nhập khác, trong đó đáng buồn là thu nhập được từ tranh lại rất ít. Theo anh, nguyên nhân do đâu mà họa sĩ không sống được bằng nghề chính của mình?

Ở đâu cũng vậy chứ không phải ở VN, phần lớn họa sĩ đều sống nhờ hành nghề vẽ, làm trang trí, làm nội thất, thiết kế đồ dùng, sách báo, quảng cáo tức là nghề mỹ thuật ứng dụng sẽ có nhiều công ăn việc làm hơn và thực tế hơn là mỹ thuật hiểu là tranh vẽ. Tách bạch mỹ thuật và mỹ thuật ứng dụng sẽ thấy họa sĩ đều sống được bằng nghề. Những họa sĩ nào không sống được bằng nghề vì họ không có nghề mỹ thuật ứng dụng, họ chỉ biết vẽ mà vẽ lại chưa đẹp.

Anh có sống được bằng nghề không, hay cũng tùy giai đoạn? Làm thế nào để luôn giữ được ngọn lửa sáng tạo?

Tôi sống được bằng nghề chứ, vì ngoài vẽ và vẽ ứng dụng, tôi cũng chả biết làm gì, không biết kinh doanh, không biết mua nhà để cho thuê, không biết buôn đất buôn cát. Tranh cho dù là nghệ thuật nhưng đã là buôn bán thì tranh cũng là một mặt hàng. Lúc thì ế sưng, lúc thì "tôm tươi" tùy từng giai đoạn, chả biết thế nào mà lần, giả sử mà biết được thì... nói làm gì. Ba năm nay chả bán được nửa cái tranh nào nhưng vẫn là sống được, sống được bằng nghề, sống được bằng tiền bán tranh của giai đoạn trước. Thế nào mà chả sống được?
Lửa sáng tạo nó cháy bằng tình yêu của mình với nó. Mình yêu vẽ, ngọn lửa ấy cháy tự nhiên, muốn nó tắt cũng chả xong, có gì mà phải giữ.

Lời khuyên cho các họa sĩ trẻ mới bước vào nghề?

Khi đã làm họa sĩ thì một họa sĩ chân chính nên đồng thời là trí thức, đừng chỉ vẽ bằng tay, bằng mắt mặc dù hội họa là nghệ thuật thị giác; phải vẽ bằng sự hiểu biết, bằng trải nghiệm sống.
Một họa sĩ chuyên nghiệp không phải là người vẽ nhiều hay ít, sống được bằng bán tranh hay không (vẫn có nhiều họa sĩ vẽ xấu mà bán chạy). Họa sĩ chuyên nghiệp là người cả đời từ khi cầm bút vẽ đến khi chui vào quan tài luôn luôn đau đáu một việc vẽ thế nào chứ không phải vẽ gì. Tức là luôn luôn vật vã với tất cả các "gạch đầu dòng" của phạm trù hình thức, nào là màu, hình, bố cục, nào là bút pháp, chất liệu, đậm nhạt, kích thước…
-------------
Theo: "Thanh niên Online"

“Mỹ học là đạo đức học của ngày mai”

Phan Cẩm Thượng

Nhà phê bình nghệ thuật Phan Cẩm Thượng - Tranh Quốc Thái

Xưa kia khi một cô gái quá chải chuốt, người già thường bảo "Người đẹp chẳng mài ra mà ăn đâu” và "Cái nết đánh chết cái đẹp” ở những thời kỳ miếng cơm, manh áo day dứt hàng ngày tưởng như không ai chú trọng đến hình thức nữa. Trên thực tế cái đẹp, sự hướng tới những hình thức văn hóa nghệ thuật, tính làm đỏm, ưa trang trí dường như là một bản tính tự nhiên của muôn loài và con người, bất kể hoàn cảnh sống ra sao. Nghệ thuật xuất hiện ngay từ thời Tiền sử, khi mà mức sống rất thấp và hoang dã. Những sắc tộc canh tác, săn bắn phụ thuộc nhiều vào thiên nhiên, tự cung tự cấp và tiền gần như không có, thì sự hướng tới cái đẹp lại có tính chất hàng ngày. Thẩm mỹ là một nhu cầu tự nhiên và đương nhiên, tùy từng mức độ, tôn giáo và triết lý sống. Nói đến cái đẹp là nói theo nghĩa hẹp, nói đến thẩm mỹ thì có vẻ rộng hơn. "Mỹ" bên ngoài chính là sự tổ chức hình thức của văn hóa sống, bên trong chính là tinh thần của các giác quan.

Công cụ cũng cân đối, mài rũa, thì tính năng càng cao, do vậy mà cũng đẹp. Xã hội Việt Nam thời xưa quần cư trong làng xã, kinh tế không cao, nhưng đạt đến mức độ văn hóa nhất định, lấy tam giáo (Nho - Lão - Phật) làm cơ sở tinh thần, và lấy cảm quan hài hoà với thiên nhiên đạo đức gia phong đúc kết thành quan niệm thẩm mỹ. "Giấy rách giữ lấy lề", "Lá lành đùm lá rách", răng đen, áo tứ thân, khăn mỏ quạ, yếm thắm, nón thúng quai thao... là quan niệm sống và thị hiếu thường nhật. Cái đẹp nằm trong cái nghèo, "bần nhi lạc" (nghèo mà vui). Trong sự đơn sơ, thô phác về hình thức, tinh tế về tình người, thêm một việc chẳng bằng bớt đi một việc, nhường nhịn, làm lành, rất muốn nhưng tỏ ra nhún nhường, e ấp.

Tất cả, lâu dần, đúc kết thành một lối sống thanh đạm với một trình độ thẩm mỹ đồng đều và khá cao. Từ một ngôi nhà lá, nhà tranh vách đất, căn nhà gỗ đến một ngôi chùa, ngôi đình đồ sộ khác nhau về mức độ đầu tư kinh tế và công phu xây cất, nhưng lại thống nhất chung ở một tinh thần thẩm mỹ coi con người như một phần của trái đất, âm dương là nguyên lý, ngũ hành là vật chất, chân thiện mỹ là tiêu chuẩn.

Đụng chạm vào xã hội hiện đại, sau nhiều năm chiến tranh, nền công nghiệp nhập ngoại thiếu những tan tành song hành với sự suy thoái đạo đức trên diện rộng. Tham nhũng, buôn lậu, lãn công, mãi dâm, ma túy... đi kèm với những biểu hiện văn hóa nhập ngoại lai căng, trong khi một mô hình văn hóa mới chưa định hình và chưa trở thành lối sống của con người Việt Nam dân tộc và hiện đại. Sự xuống cấp thẩm mỹ cũng là toàn diện, bất kề định xây dựng tốt hay xấu, biểu hiện trước tiên ở nền kiến trúc thiếu phong cách lệch lạc hoàn toàn giữa công năng và thẩm mỹ, đồ ứng dụng hàng ngày chuộng hàng Âu - Mỹ hơn hàng nội, ở sự ứng xử trong các thế hệ trẻ và tựu trung ở văn hóa nghệ thuật chuộng sự tân kỳ, gây sốc và đứng ngoài nhân tìmh thế thái mà khoe tài, khoe khéo, hoặc bám sát hiện thực thì thành tục tĩu, thô thiển, rượt đuổi các phong cách, trường phái nghệ thuật phương Tây, bất chấp thực tế Việt Nam có phù hợp hay không. Ở khu vực nông thôn mọi di tích cổ: đình, đền, chùa đều bị xây, sửa tô vẽ lòe loẹt, tôn giáo nhiều nghi lễ bùa chú phiền toái và dị đoan, hội lễ ít tính đặc thù văn hóa, mà mang tính thương mại và ồn ĩ phô trương vô cùng. Các khu cư dân mời nảy nở ven đường quốc lộ và đường liên tỉnh, xuyên huyện không ra làng, cũng chẳng ra phố. Ăn uống, biếu xén, phong bì thay thế cho mọi quan hệ. Càng trang hoàng càng lộn xộn, càng triết thuyết càng rỗng tuếch.

Càng nhiều nghi thức càng xa sự thật.

Khi ứng xử xã hội trở nên thực dụng thì thẩm mỹ cũng mang tính làm từ thấp đến thực dụng như một thứ thị hiếu trọc phú. Khả năng thưởng thức tinh thần thuần túy, sự mơ mộng cũng mất dần. Dù không được giáo dục, ai nấy cũng tự hình thành một nhãn quan thẩm mỹ riêng. Thẩm mỹ truyền thống có tính phổ cập cho mọi công dân dù học thức ít hay nhiều. Từ ông đồ Nho lắm chữ, người thợ thủ công chạm khắc đình chùa, vẽ tranh dân gian, đến người nông dân cày bừa, đan lát thị hiếu và mức độ thẩm mỹ của họ là tương đồng. Mô hình làng xã tan vỡ và đang tan vỡ, người nông dân mất khả năng phán đoán thẩm mỹ truyền thống. Họ bắt đầu dùng đồ tạp nham, đồ sắt, đồ nhựa thay cho đồ gỗ, đồ gốm, quần áo may sẵn, xe máy, ti vi rẻ tiền miễn là tiện dùng, dù rất chóng hỏng và ít tính năng. Trong khối cư dân thành thị và cán bộ một mặt họ không còn giữ được thẩm mỹ truyền thống từ nguồn gốc nông thôn, mặt khác sự phú quý tăng trưởng không đi đôi với học thức và trình độ thẩm mỹ, dẫn đến hình thành thẩm mỹ lai căng chấp nhận mọi cái đẹp, cóp nhặt mọi cái đẹp đem vào nhà mình.

Trong tình hình như vậy, giáo dục thẩm mỹ là một vấn đề quan trọng, không chỉ đơn thuần có ý nghĩa tinh thần, hoặc để thưởng ngoạn văn thơ. Xu hướng chuyên môn hóa trong xã hội kỹ thuật cao, càng ở xã hội công nghiệp, người ta càng chỉ hiểu biết trong lĩnh vực hẹp của mình. Bảo tàng, triển lãm, phim ảnh, nhạc kịch... trở thành nhu cầu bắt buộc như là sự bổ xung cho sự thành thạo một ngành nghề, nhưng phiếm khuyết về đời sống nhân văn.

Giáo dục thẩm mỹ lại không thể làm từ thấp đến cao, mà phải dậy cao ngay từ đầu. Nếu ngay từ nhỏ, con người không được tiếp xúc với nghệ thuật bậc thầy, thì sau này thẩm mỹ khó có thể thay đổi cho tốt được nữa. Song điều này không có nghĩa những nhà chuyên môn thẩm mỹ, những nghệ sỹ, những thầy cô giáo dậy vẽ, dậy nhạc thì có thẩm mỹ cao hơn những người tìm hiểu nghệ thuật. Rất có thể giáo sư nghệ thuật đương nhiên có chuyên môn nghề nghiệp cao hơn sinh viên, nhưng lại có thẩm mỹ thấp hơn. Thẩm mỹ bắt đầu từ văn hóa ứng xử chân thành nhưng không thô thiển, từ lựa chọn các phương án sống ăn mặc ở, tiêu dùng hàng hóa, và cao hơn là khả năng thưởng thức nghệ thuật. Thẩm mỹ càng cao thì nhu cầu tiêu dùng càng cao, cũng như khả năng sáng tạo trong sản xuất càng cao, tự mình đóng góp vào một xã hội hoàn mỹ, đòi hỏi một xã hội hoàn thiện hoàn mỹ cho mình. Đương nhiên trong lịch sử điều đó chỉ là lý tưởng, nhưng chính nhờ lý tưởng mà các công trình kỳ vĩ và các xã hội tiệm cận chân thiện mỹ ra đời. Như Goocky nói: “Mỹ học là đạo đức học của ngày mai”.
-------------