Ngày xuân nói chuyện xem tranh

Võ Đình

Một buổi khai mạc triền lãm mỹ thuật. Đôi nam nữ đứng tuổi, dáng dấp sang trọng, lịch sự, chờ mãi mới chộp được lúc họa sĩ X. lơi tay tiếp khách, xông đến ngay. Vài câu thăm hỏi. Rồi người đàn bà ngước nhìn bức tranh trên tường, ngay chỗ ba người đang đứng: “Dạ, thưa, chúng tôi thích bức này lắm. Dạ, đẹp quá...". “À, vâng... ông bà thích lắm à?" Họa sĩ X. chỉ phun ra được một câu khá vô duyên. Người đàn ông nhìn quanh giọng tự tin: “Màu sắc được lắm. Được lắm. Tôi ưa cái màu vàng kia kìa”. Người đàn bà phụ họa: “Dạ, đúng vậy. Thật rực rỡ. có điều...” Họa sĩ X. lắng tai nhìn người đàn bà: “Vâng, thưa bà. Có điều...?”. “Dạ, có điều tôi, chúng tôi, dạ vâng, tôi... không hiểu gì cả. Họa sĩ có thể giải thích cho được không?” Người đàn bà mím môi, chờ đợi. Người đàn ông nghiêng đầu, làm như chăm chú nghe chuyện, mà lại có vẻ lơ đễnh, thờ ơ. Họa sĩ X. cảm thấy máu dồn lên mặt. Ông biết ông sắp quạu, ông cố nén nỗi bực mình. Nhưng không kịp nữa, ông nói nhanh: “Bà vừa nói là thích bức này lắm. Bà nói đẹp quá mà. Thế là đủ. Không có gì phải giải thích cả." Họa sĩ X. xoay người, dợm bước: “Hân hạnh gặp ông bà. Xin lỗi, tôi…”
Và ông “dzọt” lẹ.

Hoạt cảnh trên xảy ra mỗi tháng, mỗi tuần, khắp nơi trên thế giới. Nhiều đồng nghiệp của người viết chắc đã trải qua kinh nghiệm ấy. Không phải tác giả nào cũng cư xử như họa sĩ X. Có người nóng này, cứng cỏi hơn, cũng có người kiên nhẫn, mềm mỏng hơn. Tùy bản tính, tùy cung cách. 
Pablo Picasso. ai cũng biết, là một họa sĩ đại tài. Ông cũng ngang bướng khỏi chê. Có lần một ông nọ hỏi Picasso: “Tranh này vẽ cái gì vậy? Tôi không hiểu gì cả?” Picasso hỏi lại: “Thế nghe tiếng Tàu, ông có hiểu không?” ông kia đáp: “Trời đất! Tiếng Tàu! Dĩ nhiên là không!” Picasso bảo: “Á à, không hiểu thì phải học!”

Tôi không biết giai thoại này thật được bao nhiêu. Chỉ biết điều đáng lưu tâm là lời nói của Picasso: Hội họa là một nghệ thuật không lời. Tuy nhiên, cứ dựa theo giai thoại trên thì có vẻ như Picasso cũng cho rằng một họa phẩm cũng biết “nói, nhưng nó “nói một ngôn ngữ dị biệt cho nên có người không hiểu. Muốn hiểu nó thì phải học nó.
Có thế thật chăng? Tôi ngờ lắm. Tôi ngờ rằng hôm đó, nghe một câu hỏi chướng tai, Picasso nồi đóa nói đại vậy chứ suy cho cùng, câu nói của thiên tài hội họa này có đôi điều lấn cấn.
Hiểu? Hiểu cái gì? Hiểu làm sao? Học? Học thế nào? Học đến đâu?

Hiểu và “HIỂU”

Phải nói ngay rằng có sự khác biệt lớn giữa hiểu và "HIỂU", cứ đọc hai câu thơ, chẳng hạn của Thâm Tâm, thì thấy ngay sự khác biệt ấy:

Bóng chiều không thắm không vàng vọt
Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong


“HIỂU”, nó không nằm ở những chữ được hiểu, cũng không nằm ở những hỉnh ảnh được thấy . “HIỂU” là xúc động. Xúc động, cho nên “khoái”. Không xúc động, chỉ mới là hiểu, chưa phải là “HIỂU”.
Một người không biết tiếng Việt, tra tự điển ra tìm những chữ bóng, chiều, không, thắm, v.v... cũng có thể hiểu câu thơ ấy nghĩa là gì. Một người khác, biết tiếng Việt, không cần đến tự điển, cũng biết những chữ ấy nghĩa là gì. Nhưng không ai có thể bảo đảm rằng cứ đọc lên câu thơ Thâm Tâm là người ấy bồi hồi xúc động: Hiểu thì có hiểu, nhưng “HIỂU” thì chưa.

Thành thử, khi bà khách nọ của họa sĩ X., hay ông khách kia của Picasso nói "tôi không hiểu" thật ra là họ muốn nói "tôi không xúc động". Lý do vì họ không “HIỂU”. Vì thế chúng ta cũng không nên trách oán Picasso hay họa sĩ X. là họ không chịu giải thích. Sau bao nhiêu năm tháng "tu luyện" tìm tòi, rồi thể hiện nên một tác phẩm xứng đáng với tên gọi là một sáng tạo, làm sao người nghệ sĩ có thể "giải thích" trong dăm ba phút tại một buổi tiếp tân náo nhiệt, người qua kẻ lại, tay cầm ly rượu, miệng nói huyên thuyên... Họ không giải thích là vì họ bất lực, không thể giải thích, chứ không phải họ làm cao, khinh người. Và sau bao nhiêu vất vả, tốn kém, phiền hà, treo được bức tranh lên tường, lại còn bị yêu cầu giải thích này nọ, người họa sĩ càm thấy quá bực mình. Bực mình chứ không phải cay cú.

Một giai thoại khác.

Có người nọ hỏi Louis Armstrong: “Jazz là gì?” Armstrong lắc đầu: “Nếu còn phài hỏi Jazz là gì thì thôi chả cần đến với Jazz làm gì nữa!” Tôi khoái giai thoại Armstrong này hơn giai thoại Picasso. Nhạc sĩ không bảo người kia “học” đi để biết Jazz là gì. ông không màng có thêm một người yêu Jazz trên đời. Nếu Picasso xử sự như Armstrong thì nhà danh họa sẽ bảo ông nọ: “Ông không hiểu gì cả à? Vậy nên đi chỗ khác mà chơi”

Đến đây, chúng ta đụng phải một vấn đề khá nhức đầu. Người “ngoại đạo” nhìn một bức tranh có khi phải kêu lên “tôi không hiểu”. Chuyện thường tình. Vậy mà, xem ra, cũng có khối người, tuy là “trong đạo”, nhìn một bức tranh cũng chẳng “HIỂU” gì cả. Nói cách khác, họ có thể hiểu (sừ dụng kiến thức, lý trí...) nhưng thật tình, họ không “HIỂU”(thưởng ngoạn). Bản thân người viết, không phải khi nào ngắm một họa phẩm kỳ bí (ví dụ: xem một bức của Picasso thời kỳ “Lập thể Phân tích”) cũng có thể nói: tôi hiểu. Nhưng, hiểu hay không, vẫn sẵn sàng thốt lên: Tôi xúc động lắm! Và đây là then chốt của vấn đề. Hiểu không quan trọng, “HIỂU” mới là quan trọng. Chúng ta cũng hãy đừng vội xem hiểu chỉ là việc cùa lý trí, kiến thức; và “HIỂU” gây nên xúc động chỉ là viêc của cảm tính, không đơn giản như vậy.

Auguste Renoir (1841 - 1919)
Bather Arranging Her Hair
Oil on canvas (92.6cm x 74 cm), 1893

Nhìn Bather Arranging Her Hair của Auguste Renoir, ngắm nghía bố cục rộng rãi, màu sắc đầm thắm, đường nét đầy ắp, tri thức người xem thỏa mãn, sự thưởng thức no nê. Nhưng rồi, xem, cái cô gái trong tranh kia, sao mà lõa lồ ngồn ngộn thế kia, sao mà nà nuột thơm tho thế kia, người xem tranh có thể trượt dần, trượt dần từ một phạm trù thẩm định thuần tri thức sang một phạm trù khác mang hơi hướng cảm tính rồi. Đấy là chuyện xem tranh Renoir. Chứ còn ngắm bức Madame Cézanne của Paul Rosenberg, Paris, ngắm cái tấm nhan sắc vừa... xấu vừa cau có của người mẫu, ngắm hai cánh tay cứng đờ như hai khúc gỗ vuông kia mà vẫn thấy họa phẩm thật dung dị, thật viên mãn, mà vần thấy bức tranh, tuy kích thước khiêm tốn lại mang một phong thái hoành tráng đẹp lạ lùng thì cái ‘hiểu" này chắc là không thuộc về cảm tính đâu.

Paul Cézanne (1839-1906), French 
Madame Cézanne in a Yellow Chair
Oil on canvas (80.9cm x 64.9 cm) - 1888-1890

Cái “HIỂU”, nó không thuộc về lý trí vì nó không thuần là quan sát, phân tích, suy luận. Nó cũng không thuộc về cảm tính vì xem như Cézanne đã cố tình tạo nên hình ảnh người phụ nữ... khó thương nhất trong lịch sử hội họa. Thế mà chưa đủ: Từ ngày Cézanne ra đi, 1906, hội họa bước những bước khổng lồ. Người phụ nữ trong tranh không bao giờ còn mềm mại, hấp dẫn như ở Renoir nữa. Mà cũng không bao giờ cứng cỏi, nhăn nhó khó thương như ở Cézanne nữa. Họ được trừu tượng hóa tối đa. Chỉ còn hình khối, đường nét, màu sắc. Rồi đến cuối thế kỷ này, hô lũ lượt bỏ đi cả. Đi đâu mất tiêu cả.

Hội họa không cho phép kẻ thường ngoạn được vật vờ lạng quạng giữa lý trí vả cảm tính nữa. Những yếu tố có khà năng kích thích thuần cảm tính (ví dụ: cái lộng lẫy, tươi mát của một đóa hoa, cái quyến rũ mời gọi của một phụ nữ...) bị gạt bỏ ra ngoài. Đồng thời, tất cả sức nặng của họa phẩm được dồn lên bình diện ngôn ngữ và cấu trúc, cả hai, cái hiểu và cái “HIỂU” của người thưởng ngoạn được duy trì. Đến nửa cuối thế kỷ 20, thực chất của hội họa là những hình tượng hoàn toàn được sáng tạo bởi bàn tay con người .Hiểu là hiểu cái đề tài, câu chuyện, và xa hơn, hiểu cái bố cục, những giai điệu, những tiết nhịp, còn “HIỂU” là hiểu những hình tượng đã được sáng tạo này. cái “HIỂU” này, học được chăng?

Pablo Ruiz Picasso (1881 - 1973)
Woman sitting in a garden - Oil on canvas - 1938


Học để hiểu và học để “HIỂU”

Ở các nước Tây phương tiên tiến, đặc biệt ờ Hoa Kỳ, người ta lưu tâm đến cái học lắm. Không phải chỉ cái học để lấy bằng tốt nghiệp, ra hành nghề, hốt bạc, mả còn đến cái học để biết thưởng ngoạn, nôm na là để biết khoái. Riêng về hội họa, rải rác ở các đại học có những lớp dạy “Thưởng Thức Nghệ Thuật” (Art Appreciation). Đa số người theo học thuộc về “phái yếu” (nhiều đấng nam nhi còn bận lo những thứ “thực tế’ hơn, và khi rảnh rang còn phải theo dõi kỹ những trận đấu bóng, v.v...). Ở các lớp “Thưởng Thức Nghệ Thuật” đó, người ta được dìu dắt đi vảo thế giới tạo hình xưa và nay: các thời kỳ, trường phái, lý thuyết, v.v...
Ngoải những chương trình cấp đại học ấy ra còn có những lớp Continuing Education (tạm gọi là Bổ túc”, hay “Bồi dưỡng”) thường được tổ chức ban đêm, ngay tại địa phương, gần và tiện cho nhiều người. Học để biết, để hiểu cũng có. Mà học để “HIỂU” để “khoái” cũng có. Cho nên có những khóa vẽ, đằng sau chuyện học vẽ này là ta sẽ biết thưởng thức hơn nếu chính ta bắt tay thực hành. Biết chơi vài ba bản đàn sẽ giúp ta thưởng thức âm nhạc tốt hơn. Nặn đất sẽ giúp ta thưởng thức nghệ thuật đồ gốm tốt hơn, vân vân. Một lý thuyết đầy thiện chí và rất hợp lý. Và thế là có bà nội trợ ẵm cả con còn mang tã đi học. Học vẽ: than, phấn, sơn dầu... Sau một thời gian, khóa học kết thúc, chẳng ai được phát bằng cấp gì. Học chơi vậy thôi. Khoái rồi, cần gì ba cái thứ như bằng cấp với chứng chỉ!

Nói chung, ở Âu Mỹ, người ta tin tưởng sự tiến bộ. Họ đầu tư mạnh mẽ vào ảnh hưởng cải thiện của môi trường, hoàn cảnh, giáo dục, và người ta đã xây dựng được những xã hội tương đối ấm no, người dân có quyền lựa chọn, trình độ kiến thức được nâng cao. Những khóa học bổ túc, những chương trình giáo dục trên đài truyền thanh, truyền hình, những sinh hoạt cộng đồng “Sống với Nghệ thuật” , những sách vở, tài liệu ê hề trong trường học, trong thư viện công cộng.v.v... tất cả những nỗ lực ấy đã đạt được một số kết quả khả quan. Những chương trình học hỏi ấy, học “thật” cũng như học “chơi” ấy rất đáng hoan nghênh
Tuy nhiên, hoan nghênh thì hoan nghênh, lòng tôi vẫn có chút phân vân. Tôi ngờ rằng cái học chỉ mới đem lại cái hiểu, nghĩa tự điển, còn cái “HIỂU” kia, cái xúc động, cái khoái. Cái “HIỂU” ấy phải đến từ chính mình. Không trường, không thày cô nào có thể đem lại cho mình được.

Chúng ta vừa đi lòng vòng quay lại điểm khởi hành: Buổi khai mạc triển lãm. Bà khách nọ nói với họa sĩ X.: “Có điều, chúng tôi không hiểu gì cả”. Không hiểu, không xúc động, nhưng vẫn bảo tranh đẹp, vẫn phải, có thể lắm, bỏ tiền ra mua tranh. Đáng thương không phải chỉ người mua mà cả kẻ bán. Biết rằng người ta không “HIỂU”, không “khoái” tranh mình, trong khi mình thì vì cần tiền cho nên vẫn ráng mà bán, vẫn cứ tươi cười chìa tay ra nhận tiền...

Tôi mới nói ở trên: cái “HIỂU” phải đến tự chính mình, không ai dạy cho mình được. Một ý niệm bi quan. Và không dân chủ. Thật vậy, ý niệm có người sinh ra đã mang sẵn trong mình những khả năng duy nhất và dị biệt là một ý niệm phản lại truyền thống dân chủ. Khoa học đã xác minh rằng tự bản chất không có chủng tộc nào thông minh tài giỏi hơn chủng tộc nào. Trong một cộng đồng cùng chung một đời sống kinh tế và văn hóa, dĩ nhiên có người nọ người kia. Người ta cho đó là hậu quả của môi trường, cùa hoàn cành. Nỗ lực cải tiến xã hội, trong đó có giáo dục, có nhiệm vụ san bằng những bất công đó. Cho đến những ý niệm như “thiên tài” cũng trờ thành đáng ngờ vực. “Thiên tài” là gì? có người đã định nghĩa: 1% cảm hứng và 99% mồ hôi. Một nhà thơ tài danh đương đại của Việt Nam gọi mình là “phu chữ”. Chín chín phần trăm là mồ hôi thì thấy được, chứ còn cái một phần trăm là cảm hứng kia, chưa có ai hỏi nó từ đâu mà đến.

Nicolas Poussin - “Apollo và các nàng thơ” 1594
Cảnh các văn nghệ sĩ đến nhờ Apollo nói cho các nàng thơ truyền cảm hứng cho mình.

Ngày trước ở Tây phương có các “Nàng Thơ” (Muse) xinh đẹp, lượn lờ sà xuống ban phát cái cảm hứng sáng tạo cho thi nhân. Thời tiền chiến, ở Việt Nam, nữ thần trở thành một “nàng thơ” nho nhỏ, một “em”. “Nàng thơ” là một phụ nữ yêu quí mà gần gũi, gần gũi đến nỗi một Xuân Diệu có thể đối xử với nàng một cách vừa nồng nàn vừa suồng sã:

Mùa thi sắp tới! Em thơ!
Cải hôn âu yếm xin chờ năm sau!


Thi sĩ làm như bắt “em” chờ thì “em” chờ, ới “em” một tiếng lả “em” đến.

Ngày nay chúng ta phân vân cái 1% này, nó ở đâu mà đến vậy? Có đến cũng bất thần. Đến lúc nọ mà không đến lúc kia. Đến với người nảy mà không đến với người khác. Cảm hứng, nó như là một ân huệ Trời cho! Điều này còn dễ thấy và cố gắng chấp nhận được. Khó thấy vả khó chấp nhận hơn là một khi tác phẩm ra đời, không phải chuyến đi nào từ cái hiểu đến cái “HIỂU” cũng xuôi chèo mát mái. Người thưởng thức học miết cho đến khi hiểu. Hiểu xuôi rồi lại hiểu ngược, hiểu chán hiểu chê rồi mả có thể vần chưa “HIỂU”. Hiểu mà không “HIỂU”, cũng như ăn mà không thấy ngon, chán hết sức. Cái khả năng “HIỂU” này từ đâu mà đến, làm sao mà có?

Trong khỉ đó, lại có kẻ, hiểu thì ít, mà “HIỂU” thì nhiều. “HIỂU” đến độ si mê, đắm say. “HIỂU” và sung sướng vô ngần. Như một ân huệ Trời cho. Sao mà có sự bất công thế? Có người giỏi làm thơ nhưng hết sức vụng về khi đụng đến tiền bạc. Lại có người rờ vào đâu ra tiền ở đó, khôn ngoan lanh lợi rất mực nhưng quanh năm suốt tháng không cầm đến một cuốn sách hay tạp chí văn học nghệ thuật. Những trường hợp ấy, chúng ta còn có thể nói rằng ông Trời công bằng: Cho cái này mà không cho cái kia. Vậy còn những kẻ mà Trời không cho gì cả thì sao: con nhà nghèo, mặt mũi xấu xí; học môn nào cũng dốt. Trời sao bất công! Thì con người ta nảy ra ý niệm về sự công bằng: Trường đấy, trường ban ngày, trường ban đêm, trường trên truyền hình, trường online, cứ học cho đến khi nào hiểu thì thôi. Như vậy là công bằng. Và dân chủ. Trắng, đen, vảng, đỏ, giàu, nghèo đều có cơ hội học hỏi, tiến thân, và “theo đuổi hạnh phúc”. Nhưng đó không phải là đặc ân. Đó là cái quyền.

Cái quyền ấy, có lắm người sử dụng. Trong những lĩnh vực “thực tế”, cái quyền ấy nếu không đem lại một sự “thành công” lừng lẫy thì cũng giúp người ta thực hiện được phần nào những tham vọng, dự tính, ước mơ khiêm tốn của họ. Khổ nỗi, trong những lãnh vực thường được coi là phù phiếm, cái quyền ấy lắm khi thật vất vả. Muốn hiểu thì phải học, như Picasso đã nói. Người ta học và người ta hiểu. Nhưng đến khi hữu sự mới bật ngửa, thì ra mình không “HIỂU” gì cả.

Thì ra giáo dục chỉ đóng một vai trò rất nhỏ.
Thì ra “thưởng thức” cũng là một thứ mà “Trời cho”. Cho người này mà không cho kẻ nọ. Thì ra, người nghệ sĩ sáng tạo là người được “Trời cho”. Như thế, có phải là bao nhiêu nghệ sĩ sáng tạo và bao nhiêu kẻ thưởng ngoạn tác phẩm của họ, bao nhiêu người được “Trời cho” như thế khắp trái đất này tính chung lại họ làm thành một “giai cấp” không? Vì cái khả năng đặt biệt cùa họ, vì họ nắm bắt được những thứ quí báu hiếm hoi, có phảỉ là họ làm thành một thứ “quí tộc” không? Những thứ quí báu không phải là quyền cao chức trọng, không phải là vàng bạc kim cương, không phải là uy danh thế lực nhưng quả thực là hiếm hoi. Phản dân chủ quá đi chứ!

Tuy nhiên, hãy xin đừng vội lên án cái “quí tộc” bất đắc dĩ này. “Lạ gì bỉ sắc tư phong”, cụ Nguyễn Du đã viết. Cụ Đào Duy Anh cắt nghĩa bỉ sắc tư phong: cái bên kia thua sút (bỉ sắc), cái bên này trội hơn (tư phong) (được bề này thì mất bề kia). Có chữ: Phong ư thử; sắc ư bì (hơn bên này, kém bên kia).
Cái “quí tộc” sáng tạo vả biết thưởng ngoạn công trình sáng tạo này, cái “quí tộc” chẳng đặng đừng này không hơn người ở những chỗ thường được so bì trong thiên hạ. Gốc gác, dòng họ? Đâu có chuyện đó, vả lại, Đức thánh Khổng mà còn dặn dò: Giữ sách cho con cháu, chưa chắc con cháu đọc được. Ông bà ta mộc mạc hơn: Cha làm thầy, con đốt sách! Quyền lực, tiền của? Những thứ ấy không phải là chỗ phát xuất văn học nghệ thuật, mà cũng không phải là nơi văn học nghệ thuật lân la tìm chốn nương thân, sáng tạo vả thưởng ngoạn công trình sáng tạo, rốt cuộc, là của trời cho. Trời cho thì nhận, và biết ơn, và hưởng thụ.

Thành thử, nghĩ cho cùng, chỉ có níu áo ông Trời mới giải đáp được những gì con người bất lực không thể tìm ra manh mối. Tôi cảm thấy có lỗi đối với tất cả những bậc thầy đã dạy dỗ mình xưa nay, trong sách cũng như ngoài đời. Tôi buộc lòng phải cúi đầu tạ từ các vị ấy để trở về bấu víu lấy cái quan niệm xưa cũ của ông cha ta ngày xưa: "Trời sinh ra thế"!
--------------------
(Theo Tạp chí Văn, số Xuân Canh Thìn. 2000)

Xem thêm:

2 nhận xét:

  1. Từ hiểu nghĩa rất rộng, phải nghiên cứu rất kỹ mới biết được

    Trả lờiXóa
  2. Người xem tranh cũng cần phải có hiểu biết về nghệ thuật

    Trả lờiXóa

Xin mời đóng góp những ý kiến quý báu của bạn!