Bùi Như Hương
Chúng ta đang sống vào một thời kỳ mà nghệ thuật đương đại,
hay còn gọi là nghệ thuật hậu môđéc, đang phát triển rộng khắp toàn cầu, với
hai xu hướng chính có vẻ đương đại hơn cả, đó là xu hướng nghệ thuật không gian,
bao gồm sắp đặt, biến đổi, trình diễn, sáng tạo không gian bằng mọi phương tiện
chất liệu, và xu hướng high-tech, áp dụng kỹ thuật số, màn hình, đèn chiếu… vào
các trò chơi nghệ thuật thị giác mới lạ, đặc trưng của xã hội trí tuệ và khoa
học công nghệ trình độ cao. Ðối với công chúng Việt Nam, các hình thức cấp tiến
của nghệ thuật đương đại không còn mấy xa lạ, bởi nó đã hiện hữu ngay ở Việt
Nam, dù còn yếu ớt, mờ nhạt, song cũng đã là một đề tài gai góc hấp dẫn để báo
chí dư luận tranh cãi mổ xẻ. Gần đây, các triển lãm giao lưu và hội thảo quốc
tế diễn ra tại Việt Nam ngày một nhiều, “Cửa sổ châu Á” hay “Quobo” là ví dụ
điển hình, qua đó người xem Việt Nam được thấy tận mắt tính đương đại quốc
tế, được cảm nhận cụ thể thế giới là ai, họ đang nghĩ gì, nghệ thuật là cái
gì? Và qua đó không thể không liên hệ ngược lại phía bản thân, với các câu
hỏi muôn thuở vẫn thời sự: Vậy chúng ta là ai? Chúng ta đang ở đâu?
Nhìn về quá khứ, ít ai có thể phủ nhận rằng nghệ thuật cổ
truyền, còn gọi là nghệ thuật truyền thống dân tộc của Việt Nam, mang đầy tính
dân gian. Nghệ thuật này kéo dài nhiều thế kỷ, suốt từ thời Ðông Sơn, Ðại Việt
cho đến tận ngày nay. Sản phẩm tiêu biểu của nó là trống đồng Ðông Sơn, điêu
khắc đình làng, điêu khắc-đồ hoạ Phật giáo làm theo công thức mẫu mã truyền
miệng nhưng đã bị dân gian hoá khá nhiều, vài ba loại tranh dân gian, đồ gốm và
các hàng thủ công mỹ nghệ…, với mục đích rõ ràng luôn hướng tới trang trí, làm
đẹp và ứng dụng thực tế. Nội dung chủ yếu phản ánh sinh hoạt lao động, lễ hội,
vui chơi, những biểu tượng tôn giáo, tín ngưỡng, cầu may trong dân gian, qua đó
con người gửi gắm ý niệm về cái đẹp và ước vọng về một cuộc sống an nhàn sung
túc, phúc-lộc-thọ trường. Nghệ thuật này lúc thịnh lúc suy, biến đổi theo thời
cuộc, có khi thất truyền hẳn như trong chiến tranh, hay trong các phong trào đô
thị hoá, hiện đại hoá ngày nay. Song bản tính dân gian, tinh thần dân gian thì
vẫn vậy, ít thay đổi, vẫn tồn tại và là nền tảng tinh thần chính cho toàn bộ
nền mỹ thuật Việt Nam, khi mà đại bộ phận môi trường thẩm mỹ, lối sống, cấu
trúc xã hội, trình độ văn minh và nhất là tư tưởng con người về cơ bản vẫn ở
giai đoạn tiền công nghiệp.
Trong nghệ thuật, phong cách dân gian có cả mặt hay lẫn mặt
dở. Hay là ở chỗ nó gợi về cội nguồn văn hoá làng quê nơi mang đậm dấu ấn bản sắc
dân tộc Việt. Dở là ở chỗ nó khiến mỹ thuật Việt Nam dường như chỉ dừng chân ở
trang trí miên man sơ sài, thể hiện những tình cảm cá nhân vụn vặt, ít có cơ
trở nên hoành tráng lớn lao về nội dung, hình tượng. Hạn chế này còn thấy trong
nhiều lĩnh vực hoạt động sáng tạo khác của người Việt như văn học, âm nhạc,
điện ảnh, xây dựng, kiến trúc… So với bề dày ngàn năm lịch sử của nghệ thuật cổ
truyền thì sự có mặt gần một thế kỷ qua của nghệ thuật bác học và khoa học theo
kiểu châu Âu ở Việt Nam, mà đại diện của nó ban đầu là trường MTÐD và sau này
là trường Ðại học Mỹ thuật Hà Nội, quả là ngắn ngủi, chẳng đáng là bao. Với 20
năm tồn tại, công lao chủ yếu của trường MTÐD là giới thiệu vào Việt Nam kỹ thuật
sử dụng sơn dầu, và đó cũng là xuất phát điểm để Việt Nam có một nền nghệ thuật
mang đậm tính cá nhân và trách nhiệm cá nhân, chứ không mờ nhạt nôm na phường
thợ như trước đây. Vai trò trách nhiệm của người nghệ sĩ trong xã hội được đề
cao, từ vị trí khuyết danh trở thành có danh và ký tên đàng hoàng trên tác phẩm.
Sự quay về cảm thức dân gian, khai thác bản sắc dân tộc từ
nghệ thuật cổ truyền và từ văn hoá làng của thế hệ hoạ sĩ đổi mới (có thể tính người
mở đầu là Nguyễn Tư Nghiêm) một lần nữa cho thấy rằng truyền thống MTÐD là mỏng
manh, thẩm mỹ học viện châu Âu một thời đối với tâm hồn dân gian Việt Nam là có
phần lệch pha, khiên cưỡng. Trong sự trở về làng ồ ạt, ngoài những lý do tốt
đẹp dễ thấy và thuyết phục là tìm bản sắc dân tộc, tìm sự tươi mới hồn nhiên,
sơ khai trong tinh thần dân gian kết hợp hiện đại, còn có những lý do tế nhị
khác không dễ nói, đó là sự chối từ các công thức áp đặt, nhàm chán, và lối vẽ
chính xác mệt mỏi theo tinh thần khoa học vốn không hợp với mỹ cảm tượng trưng
ước lệ của người Việt; sự đi tắt vội vàng, tránh né kỹ thuật và lao động, với
suy nghĩ mơ hồ nông cạn dân gian chính là hiện đại, hoặc với hy vọng theo tấm
gương ông Nghiêm nối nhanh tức thì được cái dân tộc với cái hiện đại (mà không
nghĩ rằng thành quả của ông Nghiêm là cả một quá trình lao động nghiên cứu miệt
mài cộng với tài năng và sự hiểu biết sâu sắc về truyền thống); và cuối cùng
còn có sự vào hùa sản xuất nhanh nhiều những mặt hàng nghệ thuật xu thời có
tính “dân tộc” dễ bán.
Người nước ngoài có lý khi nói rằng nghệ thuật Việt Nam đa
phần chỉ là “nice art”, dễ thương và duyên dáng, dùng để trang trí làm đẹp là chính
chứ ít bày tỏ thái độ cá nhân và ít nội dung tư tưởng. Truyền thống mỹ thuật
Việt Nam xưa nay là như vậy, luôn hướng tới sự bình ổn, an lạc và duy mỹ, tới
những niềm vui và ước vọng nho nhỏ như đã nói phía trên. Ðó cũng là một phần
tính cách của người phương Ðông, làm nghệ thuật để hoà nhập thân phận với vũ
trụ chứ không để phản kháng. Không phải tự ti, và cũng chẳng có gì để tự tôn,
khoe khoang. Và thế là sau hoà bình, nhất là thời kỳ đổi mới, mỹ thuật Việt Nam
lại càng trở về với xu hướng duy mỹ, trang trí thực dụng truyền thống, với
những tình cảm và ước vọng cá nhân bé bỏng là như vậy. Nối những vấn đề chính
trị – xã hội căng thẳng vào cái đẹp mỹ thuật là sự kết duyên có phần khiên
cưỡng, gượng ép theo mỹ cảm truyền thống Việt Nam. Nói như nhà nghiên cứu phê bình
mỹ thuật Nguyễn Quân thì “hiền lành là bản tính của văn nghệ Việt Nam” và
“trong quá khứ văn nghệ Việt Nam, nghệ thuật rất hiếm khi cầm cờ hay đối đầu
trong các biến động chính trị xã hội”. Hai chữ mỹ thuật (Fine Art) được dùng
phổ biến khắp nơi: Hội MT, Viện MT, Vụ MT, Trường ÐHMT, Bảo tàng MT…, như một
định hướng chắc chắn, khẳng định, chứ không phải hai chữ nghệ thuật (Art) chung
chung như thế giới thường dùng. Rồi trong ngôn ngữ lý luận, mỹ thuật cũng được
dùng với đủ các chức năng: danh từ, tính từ, có khi là cả một đại từ to tát để
chỉ cả một nền mỹ thuật Việt Nam, rất đúng với bản sắc truyền thống duy mỹ của
người Việt, không gì thay thế. Nhưng thế nào là đẹp còn là một vấn đề khác.
Nghệ thuật và cái đẹp luôn không ổn định, mà thay đổi cùng với cuộc sống và nhu
cầu tinh thần của con người, thời đại. Các giá trị nghệ thuật cũng có nhiều cấp
độ khác nhau, tuỳ vào hàm lượng nội dung, ý tưởng và tính đại diện của nó.
Trong khi ta đang đeo đuổi nghệ thuật trang trí an nhàn duy mỹ ngày càng xa rời
cuộc sống, hoặc cố gắng tái tạo hình ảnh chiến tranh cách mạng một cách gượng
ép không thành và cũng đã thuộc vào quá khứ, thì thế giới lại đang rất quan tâm
tới các vấn đề thời sự, nhân loại mang tính toàn cầu. Nghệ thuật đương đại trên
thế giới hiện nay là nghệ thuật nhập cuộc với cuộc sống, mang thông điệp và nội
dung hiện thực cao. Nghệ sĩ là các nhà hoạt động xã hội tích cực, có tư tưởng
và nhậy cảm xã hội, là các cá nhân có khả năng hoạt động liên ngành nghệ thuật.
Và theo quan niệm của họ, làm nghệ thuật là để lên tiếng, bày tỏ tư tưởng, trí
tuệ, và thái độ cá nhân trước các vấn đề của cuộc sống. Ðó là sự khác biệt, là
khoảng cách khá lớn giữa ta và họ hiện nay.
Dọc theo chiều lịch sử mỹ thuật Việt Nam, những thành công
có được của mỹ thuật cổ truyền chủ yếu gắn nhiều với nội dung tôn giáo, tín ngưỡng,
và là kết quả của niềm tin thành kính của con người trước quyền lực vô biên của
thiên nhiên, vũ trụ và thánh thần. Một vài thành công tiếp theo của mỹ thuật
cách mạng có được một phần nhờ vào niềm tin trong sáng lãng mạn vào cuộc cách
mạng và cuộc kháng chiến thần kỳ không kém phần huyền thoại của dân tộc. Còn
ngày nay, để có được một niềm tin, một bầu không khí trong lành, huyền thoại
nào đó thật khó, đó là thiệt thòi của thế hệ sau. Nền kinh tế thị trường, cuộc
sống và môi trường mang nặng màu sắc cạnh tranh, hưởng thụ, đã phá tan cả ý chí
lẫn tình cảm của con người trong xã hội.
Không thể nuối tiếc những giai đoạn phát triển đã qua của
nghệ thuật cổ truyền, nghệ thuật dân gian, hay nghệ thuật cách mạng, vì mỗi
thời kỳ sáng tác đều có môi trường riêng sản sinh ra nó. Sức hấp dẫn của mỗi phong
cách nghệ thuật cũng chỉ sinh ra trong thời hoàng kim của nó, không bao giờ
quay trở lại. Ví như châu Âu có cả một nền nghệ thuật truyền thống vững vàng
trải dài 25 thế kỷ rồi cũng đến lúc phải chia tay. Truyền thống luôn luôn chỉ
là nền tảng để ta phát huy và gieo mầm những ý tưởng sáng tạo mới cho phù hợp
với nguyện vọng và tinh thần thời đại. Sự gieo mầm này có thành công hay không
lại phụ thuộc vào trình độ hiểu biết, vốn sống và năng lực cá nhân người nghệ
sĩ. Một số cố gắng thái quá hiện nay của giới trẻ hướng tới hoài niệm chất cổ,
chất dân gian, chất tôn giáo, mà ít hiểu biết về nguồn gốc, lý do, môi trường
sản sinh ra các hình thức nghệ thuật ấy, nên đã vay mượn lắp ghép một cách tuỳ
tiện, sống sít các môtíp, biểu tượng, dẫn đến những kết quả ngớ ngẩn, bi hài.
Mỹ thuật Việt Nam đương đại bị mang tiếng là chiết trung hoài niệm vu vơ, xa
rời thực tế, giả tạo tình cảm. Ðáng buồn hơn là do thiếu nội dung tư tưởng mà
nhiều người luẩn quẩn sa đà vào đề tài “âm dương-phồn thực” giả danh, thô lậu,
lại cứ tưởng rằng chỉ có thế mới là hay là đẹp. Ngay cả khi có tiền đầu tư làm
tượng đài ở những nơi công cộng, thi thố quốc tế, người ta (người Việt) cũng
không nghĩ được gì khá hơn ngoài những “nhuỵ hoa, mầm sống, tình yêu” đâm chồi
nảy lộc, phô trương trơ chẽn. Cứ xem một vài tác phẩm điêu khắc của Việt Nam ở
trại sáng tác Huế thì thấy rõ. Nói gì đến ước mơ một nền nghệ thuật cao sang trí
tuệ.
Một bộ phận khác của mỹ thuật đương đại là những nghệ sĩ cấp
tiến, hoà nhập nhanh chóng vào dòng nghệ thuật đương đại quốc tế. Nghệ thuật này
có thế mạnh ở chỗ rất cập nhật và hiện thực, dễ dàng đề cập tới những vẫn đề
phức tạp, nóng bỏng của xã hội, kể cả xấu xa lẫn đẹp đẽ, dễ chuyển tải các
thông điệp tư tưởng, bức xúc của con người. Song khó là ở chỗ, hình thức mới
này chưa quen với con mắt duy mỹ, chuộng cái đẹp truyền thống của người Việt.
Hơn nữa, nó chẳng để lại sản phẩm gì cụ thể, thực dụng, nên hầu như không có
được sự tài trợ nào. Cũng cần nói rằng, trong số các nghệ sĩ theo xu hướng mới,
rất ít người thực sự xuất sắc, nối được mỹ cảm dân tộc, truyền thống trong các
trò chơi sắp đặt không gian và thể hiện được ý tưởng cá nhân rõ ràng (như
trường hợp Bảo Toàn, Minh Thành, Trần Lương…). Còn lại, khá nhiều triển lãm đua
đòi, tầm phào, ít để lại ấn tượng. Nghệ thuật mới chỉ thực sự nảy nở phát triển
khi nó trở thành một nhu cầu, động lực thật sự từ trong lòng xã hội và con
người. Mọi cố gắng không tới, hoặc với quá, cũng là vô ích.
Như vậy, có thể nói mỹ thuật đương đại Việt Nam, sau hơn
mười lăm năm đổi mới, phát triển bùng nổ, gặt hái thành quả nhất định, hiện nay
đang chững lại, luẩn quẩn ở ngã ba bế tắc, thiếu định hướng. Những người ngược
dòng trở về truyền thống thì vội vã ăn sổi, chưa đủ nền tảng văn hoá sâu sắc để
thấm nhuần và tiếp thu truyền thống một cách hợp lý. Truyền thống thì ngày một
xa, bản sắc dân tộc ngày một mờ nhạt trong khung cảnh công nghiệp hoá, toàn cầu
hoá không gì cưỡng lại. Năng khiếu, tình cảm con người vốn không thiếu nhưng đã
mài mòn, tiêu hao nhanh chóng trong cơ chế thị trường thương mại hoá. Không nhẽ
các nghệ sĩ cứ tiếp tục lơ phơ, giả đò hồn nhiên dân gian mãi mãi? Một số người
cấp tiến mà không đủ bản lĩnh và trình độ, liều lĩnh vượt quá xa biên giới dân
tộc và truyền thống, tìm những ảnh hưởng vội vã của nghệ thuật đương đại quốc
tế, thì có lẽ cũng thấy rằng ở đó có những vấn đề xa lạ không phải của mình,
hoặc chưa hẳn hợp với tâm cảm Việt Nam. Cuối cùng, thì mỹ thuật đương đại Việt
Nam sẽ đi về đâu?
Ðã vài năm nay, mỹ thuật Việt Nam đang mang tiếng là hàng
chợ cao cấp, souvenir, xuất khẩu vặt cho sức tiêu thụ đại chúng mạnh mẽ trên
thế giới. Một chút salon bóng bảy, một chút ngộ nghĩnh sơ khai, một chút phong
cảnh hữu tình, một chút huyền bí dân tộc, một chút lẳng lơ nhục cảm…, kiểu nào
cũng có, rất phong phú đa dạng về hình thức, rất trang trí bịa đặt, nhưng nhìn
chung khá tầm thường và nghèo nàn về nội dung. Nói hơi quá lời thì đó chính là
mỹ thuật làm ăn, kết hợp kinh nghiệm vẽ vời với một chút khéo tay khôn ngoan
vốn có của người Việt để tạo ra các sản phẩm biến báo linh hoạt về hình thức,
có thể bán được, chứ không phải nhu cầu tình cảm nội tâm thực sự (tất nhiên có
những trường hợp ngoại lệ). Ðành rằng đa số các họa sĩ hiện nay phải bán mỹ
thuật để kiếm sống, không còn cách nào khác, nhưng làm thế nào để mỹ thuật
thoát ra khỏi tình trạng văn hoá du lịch, “thợ làng, hàng chợ” này, làm thế nào
để nâng cao chất lượng nghệ thuật?
Ðường lối dân tộc – hiện đại mà mỹ thuật Việt Nam đề cao
nhiều năm nay vẫn luôn là hướng đi tích cực, sáng suốt, giữ gìn được bản sắc
trong xu hướng hội nhập toàn cầu, nhưng phải hiểu về nó như thế nào cho đúng theo
tinh thần biện chứng, và triển khai nó như thế nào cho hữu hiệu? Ðó là công
việc cá nhân của các họa sĩ. Công việc này phụ thuộc rất nhiều vào nền tảng văn
hoá, tri thức xã hội của người nghệ sĩ. Lâu nay, trường mỹ thuật, hoặc chính
các hoạ sĩ chỉ chú tâm đào luyện kỹ năng vẽ mà thả lỏng việc trau dồi văn hoá,
thế nên thợ vẽ ra trường thì nhiều mà không tiến đi đâu được xa. Mỹ thuật Việt
Nam đang rất thiếu các nghệ sĩ – trí thức có tố chất văn hoá toàn diện, thiếu
các tác phẩm có giá trị nhân văn tư tưởng cao. Sự thiếu hụt này không nên đổ
lỗi tất cả cho nhà trường, càng không thể trông chờ vào sự đầu tư tiền bạc “màu
nhiệm” từ bên ngoài, mà trước hết chỉ có thể tự bù đắp bằng ý thức không ngừng
tu dưỡng bản thân, nâng cao nhân cách và trách nhiệm xã hội của mỗi người khi
muốn trở thành nghệ sĩ đích thực. Kinh Phật từng khuyên bảo “Tự mình là ngọn
đèn của chính mình, tự mình là nơi nương tựa cho chính mình”.
Các bài khác:
Các bài khác:
- Một cuốn sử quý về văn nghệ Hải Phòng (Hoài Khánh)
- Nghĩ về không gian của nghệ thuật điêu khắc công cộng Việt nam (AHKI Bùi)
- Nghệ thuật cộng đồng (Nguyễn Anh Tuấn)
- Cái đẹp có tiêu chuẩn không? (Trịnh Cung)
- Hải Phòng Trong mắt người Hoạ sĩ (Hoàng Đình Tài)
- Mỹ thuật Hải Phòng – Đôi điều tâm sự (Quốc Thái)
- Khuynh hướng siêu thực và ảnh hưởng của nó trong sáng tạo VHNT (Tất Hanh)
- Chất liệu đồng trong điêu khắc tượng đài (Phạm Hoàng Vân)
- 3+ Triển lãm tranh hiện thực "KHÔNG THỜI GIAN” (Lê Bá Hạnh)
- Họa sĩ là ai? (Phan Cẩm Thượng)